Liên kết website
Chính phủ
Các bộ, ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, ban, ngành
UBND huyện, thị xã
Luật Điều ước quốc tế năm 2016
Ngày cập nhật 12/08/2016

Ngày 9/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Điều ước quốc tế. Với 10 chương, 84 điều, Luật Điều ước quốc tế có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2016, thay thế Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 (Luật cũ bao gồm 09 chương 107 Điều).

 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 có những sửa đổi căn bản, toàn diện, không những khắc phục những bất cập của Luật năm 2005 mà còn cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về công tác điều ước quốc tế, tạo khung pháp lý vừa chặt chẽ vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia, phục vụ tốt cho việc triển khai thực hiện chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định ưu tiên cao nhất trong thực hiện đường lối đối ngoại là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.

Về cơ bản, Luật Điều ước quốc tế có những điểm mới như sau:

1.     Luật sửa đổi, bổ sung định nghĩa về điều ước quốc tế

Theo đó, điều ước quốc tế là “thoả thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác” (Khoản 1 Điều 2).

Đây là điểm mới rất cơ bản, có tính bao trùm, tác động đến nhiều nội dung trong Luật, khái niệm này được chỉnh sửa cho phù hợp với quy định của Công ước Viên về Luật điều ước năm 1969. Theo đó, những văn kiện nào đáp ứng đầy đủ tiêu chí của một điều ước quốc tế sẽ phải tuân theo quy trình đàm phán, ký kết quy định trong Luật. Các tuyên bố, cam kết chính trị nếu không tạo quyền và nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế thì không được coi là điều ước quốc tề và việc ký kết các văn kiện này sẽ được thực hiện theo quy định chung về thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại.

2.     Thể chế hóa các quy định mới của Hiến pháp

Luật Điều ước quốc tế năm 2016 cũng triển khai, thể chế hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, bổ sung, điều chỉnh các nội dung về thẩm quyền và trình tự, thủ tục để thực hiện thẩm quyền hiến định của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực điều ước quốc tế, tôn trọng và góp phần triển khai thực hiện, bảo vệ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nguyên tắc dân chủ, pháp quyền đã được nêu bật trong Hiến pháp.

Một trong những nội dung quan trọng là Luật năm 2016 đã cụ thể hóa các khái niệm “điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, và “điều ước quốc tế về tư cách thành viên của Việt Nam tại tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng” nêu tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013. Theo đó, Quốc hội sẽ phê chuẩn, quyết định gia nhập các “điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội” (điểm c, khoản 1, Điều 29). Quy định này nhằm mục đích phân biệt các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân với các điều ước quốc tế về hợp tác chuyên ngành như về tương trợ tư pháp, dẫn độ, chuyển giao người bị thi hành án phạt tù, nuôi con nuôi, phòng chống tội phạm và các điều ước quốc tế về hợp tác chuyên ngành khác.

Quốc hội cũng sẽ phê chuẩn, quyết định gia nhập các “điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực nếu việc tham gia, rút khỏi tổ chức đó ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ”. Đây là các chính sách cơ bản thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội theo quy định tại Hiến pháp.

3.        Bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục rút gọn của điều ước quốc tế

Để đáp ứng yêu cầu thực tế cần có thủ tục nhanh gọn cho việc ký kết một số loại điều ước quốc tế để phục vụ yêu cầu đối ngoại và hội nhập, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 bổ sung một chương về trình tự, thủ tục rút gọn áp dụng cho việc đàm phán, ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn một số loại điều ước quốc tế.

Trong đó, Luật quy định hai hình thức rút gọn, bao gồm rút gọn về quy trình (cho phép trình đồng thời việc đàm phán và việc ký điều ước quốc tế) và rút gọn về thời hạn, hồ sơ. Tuy nhiên, quy trình, thủ tục rút gọn sẽ không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập của Quốc hội, do đây là những loại điều ước quốc tế quan trọng đòi hỏi phải thực hiện theo quy trình, thủ tục hết sức chặt chẽ. Theo đó, trong trường hợp cơ quan đề xuất xác định nội dung và tập hợp đầy đủ tài liệu cần thiết trong hồ sơ đề xuất ký điều ước quốc tế theo quy định tại Điều 17 của Luật này trước khi đàm phán thì có thể đồng thời đề xuất đàm phán và ký điều ước quốc tế.

Theo Luật Điều ước quốc tế năm 2016, các thỏa thuận, cam kết về vay nợ nước ngoài nếu được ký nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam với bên ký kết nước ngoài vẫn được coi là điều ước quốc tế và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Tuy nhiên, các thỏa thuận vay cụ thể nhân danh Chính phủ với các ngân hàng của nước ngoài có điều khoản áp dụng luật của nước cho vay hoặc nước tài trợ sẽ không còn được coi là điều ước quốc tế và việc ký kết sẽ được thực hiện theo quy trình, thủ tục ký kết quy định tại Luật Quản lý nợ công. Định nghĩa mới này về điều ước quốc tế phù hợp với Công ước Viên về Luật điều ước năm 1969 và thực tiễn ký kết điều ước quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới.

4.     Quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan đề xuất trong việc thực hiện điều ước quốc tế

Luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan đề xuất ký kết điều ước quốc tế trong việc tham vấn tổ chức đại điện cộng đồng chịu sự tác động trực tiếp của điều ước quốc tế trong quá trình đàm phán; đặc biệt là trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan kiến nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định cách hiểu và áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp có sự khác nhau về cách hiểu và áp dụng quy định đó.

Luật năm 2016 cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện điều ước quốc tế (Điều 77- Điều 80).

5. Bổ sung quy định về tổ chức thực hiện điều ước quốc tế

Nhằm đảm bảo tính hiệu quả và khả thi trong việc thực hiện, thi hành Luật, Luật năm 2016 đã quy định cụ thể việc Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, phê duyệt kế hoạch thực hiện, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành hoặc biện pháp khác để thực hiện điều ước quốc tế; Sau khi lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan đề xuất căn cứ vào tính chất, nội dung của điều ước quốc tế, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xây dựng kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế trình Thủ tướng Chính phủ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Bộ Ngoại giao về việc điều ước quốc tế có hiệu lực; Trong trường hợp cơ quan đề xuất không phải là cơ quan chủ trì thực hiện điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì thực hiện điều ước quốc tế trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế.

Quy định cụ thể kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao gồm những nội dung như: Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế (Điều 76).

6. Luật Điều ước quốc tế 2016 có các quy định mới về cấp bản sao điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và việc công khai điều ước quốc tế trên các phương tiện thông tin (Điều 57 đến Điều 62)

Theo đó, Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm thực hiện việc lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên; Lưu trữ điều ước quốc tế; Sao lục, chứng thực và cấp bản sao Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu về điều ước quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Luật Điều ước quốc tế 2016 cũng quy định "Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được đăng tải trên Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cổng thông tin điện tử của cơ quan đề xuất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền."

Kết luận

Như vậy, sau khi chính thức có hiệu lực thi hành, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 cơ bản đã thể chế hoá được các quy định tại Hiến pháp năm 2013. Đồng thời phục vụ cho yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tuân thủ theo các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc và các điều ước quốc tế mà nước ta đang là thành viên; bổ sung một số quy định nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện điều ước quốc tế, nhất là những nội dung quan trọng liên quan đến trách nhiệm của Cơ quan đề xuất trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế.

Nguyễn Thị Ly
Các tin khác
Xem tin theo ngày